VIỆT NAM DƯỚI COVID-19: TẮC NGHẼN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU

import export

Mặc dù các hoạt động xuất nhập khẩu và vận chuyển sản phẩm tại Việt Nam vẫn diễn ra tích cực trong thời gian xảy ra đại dịch, nhưng tiến độ đã chậm hơn nhiều so với trước đây do các yêu cầu bắt buộc về việc tuân thủ các biện pháp phòng dịch nghiêm ngặt để ngăn chặn bất kỳ sự lây lan nào của Covid-19. Tình trạng ứ đọng hàng hóa và ùn tắc cảng ngày càng lớn khi đại dịch trở nên trầm trọng. Cụ thể, các khu vực sản xuất ở miền Nam Việt Nam như Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai đã ghi nhận ngày càng nhiều ca nhiễm khuẩn tại các nhà máy và khu công nghiệp.

CẮT GIẢM SẢN XUẤT

Các chính sách mới của Covid-19 đã mang lại nhiều hạn chế hơn cho hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Mức độ khác nhau mà các doanh nghiệp đã xuất hay nhập khẩu đã góp phần vào việc thể hiện các tác động khác nhau, và hầu hết được báo cáo là tác động tiêu cực dưới ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

Đối mặt với việc phải đóng cửa vì dịch bệnh trầm trọng, các doanh nghiệp phải đưa ra quyết định giảm số lượng sản xuất hàng hóa xuất nhập khẩu. Do đó, sự sụt giảm đã có tác động đến toàn bộ quá trình sản xuất và các ngành công nghiệp liên quan.

GIÁ CƯỚC VẬN TẢI

freight

Với nhu cầu vận chuyển hàng hóa đường biển ngày càng tăng và tình trạng tắc nghẽn cảng, các công ty xuất nhập khẩu đã phải trang trải tình hình giá cước tăng cao trong thời gian gần đây. Việc giảm số lượng sản phẩm xuất nhập khẩu và tăng chi phí nhiên liệu hàng hải gây ra bởi sự chậm trễ và đóng cửa của các công ty nhiên liệu cũng là những nguyên nhân chính làm tăng chi phí.

Thêm vào đó, tình trạng khan hiếm container vận chuyển đã gây thêm nhiều khó khăn cho cả doanh nghiệp và công ty vận tải trong việc đảm bảo đơn hàng của họ sẽ được giao đúng thời điểm. Về lao động, toàn bộ chuỗi cung ứng đều được yêu cầu nghiêm ngặt phòng dịch để đảm bảo các biện pháp bảo vệ cho tất cả những người tham gia, chẳng hạn như đeo khẩu trang, sử dụng nước rửa tay, hạn chế đi lại, thậm chí cắt giảm nhân lực, v.v. Do đó, điều này đã góp phần rất lớn vào việc tăng chi phí chuỗi cung ứng và nhiều sự chậm trễ khác.

SỰ ĐÌNH TRỆ CỦA HÀNG HÓA TRONG CHUỖI CUNG ỨNG

Các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng dưới sức ảnh hưởng đã phải đối mặt với những thách thức chưa từng có – đơn hàng trì trệ hay thậm chí bị hủy đã dẫn đến những thiệt hại nặng nề cho các công ty. Những khó khăn khác đối với giao thông vận tải có thể kể đến như các chính sách và hạn chế vận tải do dịch Covid-19, thiếu nhiên liệu, tăng chi phí vận tải, đình trệ hàng biên giới, v.v.

Đánh giá bối cảnh dịch bệnh cùng với gánh nặng chi phí vận chuyển và số lượng sản phẩm ít hơn, nhiều khách hàng nước ngoài đã quyết định trì hoãn đơn đặt hàng cho đến khi tình hình trở nên tốt hơn. Điều này đã đặt công ty nội địa Việt Nam dưới áp lực ứ đọng hàng hóa và khó tìm được lối thoát trong thời gian ngắn hạn. Hậu quả là nhiều nhà máy ở Việt Nam đã buộc phải đóng cửa khi đại dịch ngày càng nghiêm trọng.

Diễn biến thị trường sau Covid-19 là không thể đoán trước được và hành vi của người tiêu dùng sẽ liên tục thay đổi dưới tác động của đại dịch. Các doanh nghiệp và nhà máy sẽ phải đưa ra các giải pháp nhanh hơn, đáng tin cậy hơn với giá cả phải chăng để duy trì hoạt động sản xuất trong khi vẫn đảm bảo sức khỏe của người lao động và ngăn ngừa bất kỳ sự lây nhiễm nào từ virus corona. Vì vậy, phân tích hành vi tiêu dùng mới và điều chỉnh thêm công nghệ để tối ưu hóa sản xuất sẽ là những mục tiêu quan trọng mà các doanh nghiệp cần tập trung vào.

Bạn có thể truy cập bộ sưu tập đa dạng các báo cáo thị trường thứ cấp của Axis Research từ nền tảng kỹ thuật số MKMC của chúng tôi để khám phá thêm thông tin và các tin tức mới nhất về các ngành khác nhau tại Việt Nam. Nếu bạn đang cần nghiên cứu thị trường tùy chỉnh để tìm hiểu sâu hơn về sự cộng sinh của ngành và công ty của bạn, hãy xem các dịch vụ của Axis Research. Liên hệ với chúng tôi để biết thêm thông tin và nhận bản dùng thử miễn phí.

Share This Post:

admin